Y học gia đình là một chuyên ngành y khoa ra đời trong thập niên 60 của thế kỷ XX. Chuyên khoa này tạo ra BS Gia đình chủ yếu thực hành ở phòng khám ngoại trú ở các tuyến y tế cơ sở trong mạng lưới y tế thế giới.
HOÀN CẢNH RA ĐỜI Y HỌC GIA ĐÌNH Tại các quốc gia đã phát triển, vì lý do kinh tế, hầu hết việc chăm sóc sức khoẻ các bệnh mạn tính như: tiểu đường, cao huyết áp, hen suyễn,..đã chuyển từ phòng bệnh nội trú ra phòng khám ngoại trú với các phác đồ điều trị được xây dựng nhằm phân cấp các bước điều trị rõ ràng với sự phối hợp của các chuyên khoa liên quan. Hậu quả trực tiếp của việc chuyển dịch này có liên quan trực tiếp đến việc đào tạo; có nghĩa là các sinh viên, bác sĩ theo học các chương trình đào tạo Đại học và Sau Đại học đã không có dịp quan sát và thực tập nhiều bệnh lý mạn tính, thông thường như trong phòng bệnh nội trú như trước đây nữa trong các đợt luân khoa do các đợt cấp của các bệnh mạn tính này đã được quản lý hiệu quả tại các phòng khám ngoại trú với các phác đồ phân cấp rõ ràng mà không cần phải nhập viện. Ngoài ra các học viên nêu trên lại có ít cơ hội để quan sát và thực hành quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân, đặc biệt là việc chăm sóc liên tục vốn được chuyển sang phòng khám ngoại trú từ lâu. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề quan trọng và mới như dự phòng, thăm khám bệnh ngoại trú, quản lý phòng khám, vai trò của môi trường và gia đình trong bệnh tật, vai trò của huy động nguồn tài nguyên cộng đồng trong chăm sóc sức khỏe và áp dụng các nguyên lý thực hành cải thiện chất lượng liên tục chưa được chú trọng giảng dạy trong các chương trình đào tạo Y khoa truyền thống. Để khắc phục khoảng trống nêu trên: việc ra đời của chuyên khoa Y học gia đình và Người BS Gia đình là cần thiết. Bên cạnh đó, việc áp dụng mô hình sinh tâm lý xã hội (biopshychosocial model) trong quá khứ và hiện nay là mô hình chăm sóc lấy bệnh nhân làm trung tâm ( patient –center care) đã cung cấp cho người BS gia đình một cái nhìn đa tuyến (multichannel) khi chăm sóc bệnh nhân của họ khi so sánh với cái nhìn đơn tuyến của các BS chuyên khoa khác khi cùng chăm sóc một bệnh nhân. Do đó BS gia đình sẽ là người phụ trách và giải quyết vấn đề quản lý theo dõi bệnh mãn tính tại phòng khám ngoại trú một cách hiệu quả nhất. Nói cách khác, hoạt động BS gia đình sẽ trực tiếp giảm bớt gánh nặng thời gian và công việc cho các BS chuyên khoa liên quan đồng thời tiết kiệm được kinh phí nằm viện vô ích cho bệnh nhân và bảo hiễm y tế (khoa bệnh nội trú chỉ dành cho các bệnh lý thật sự nặng cần chăm sóc tích cực với sự hỗ trợ các BS chuyên khoa sâu).
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO Dựa trên triết lý học tập cho người lớn, chương trình thiết kế dựa trên các năng lực cần thiết (competency – based curriculum). Để người học có được các kỹ năng đã nêu thì Người Thầy phải đóng vai trò mẫu mực trong quan hệ Thầy thuốc - Bệnh nhân và quá trình đào tạo cũng phải toàn diện liên tục có chú ý đến tài nguyên của người học. Người Thầy truyền hết kinh nghiệm hành nghề và chuyên môn đồng thời tiếp tục theo dõi giúp đỡ người học trò của mình trong quá trình làm việc về sau một cách liên tục thông qua đào tạo y khoa liên tục. Do đó các nhà giáo dục y khoa của Y học Gia đình đã chọn thuật ngữ Mentor để diễn tả khái niệm này và dùng lối truyền đạt song hành có phản hồi với nguyên lý preceptorship. Đối tượng là toàn thể người bệnh trong khung cảnh gia đình và cộng đồng mà họ sinh sống, chứ không phải là hệ thống cơ quan hay một số các bệnh lý đặc hiệu như ở các chuyên khoa khác.
Ts Bs Nguyễn Hùng Vĩ
|