Cách đây 70 năm,
dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và
dân ta đã đập tan hoàn toàn Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, góp phần quyết định
kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chiến thắng vĩ
đại Điện Biên Phủ năm 1954 ghi vào lịch sử dân tộc ta như “một Bạch Đằng, một
Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ 20” và đi vào lịch sử thế giới như “một
chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc”. Sau đây chúng ta sẽ cùng nhau
ôn lại những lịch sử hào hùng của chiến thắng Điện Biên Phủ [1].
I. Bối cảnh lịch sử; âm mưu của thực dân Pháp
và sự chỉ đạo chiến lược của ta
1. Bối cảnh lịch
sử
Sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945, thực dân Pháp dã tâm dùng vũ lực hòng đặt lại ách thống trị
trên đất nước ta một lần nữa. Ngày 23/9/1945, chúng nổ súng đánh chiếm Sài Gòn,
mở đầu cuộc xâm lược lần thứ hai đối với Việt Nam; sau đó từng bước mở rộng
chiến tranh, chối bỏ mọi cố gắng cao nhất về ngoại giao của Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Với ý chí “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ” [2] , dù chính quyền cách mạng
còn non trẻ, đời sống nhân dân còn muôn vàn khó khăn, toàn thể nhân dân Việt
Nam vẫn một lòng, một dạ đoàn kết xung quanh Đảng, Mặt trận Việt Minh, nhất tề
đứng lên hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
quyết tâm bảo vệ đất nước với niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng. Thực
hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quân và dân ta
đã lần lượt đánh bại các kế hoạch quân sự của thực dân Pháp, làm nên các chiến
thắng vang dội: Việt Bắc thu đông 1947, Biên Giới 1950, tạo bước chuyển cơ bản
cho cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn mới - giai đoạn ta nắm quyền chủ động
chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, mở các cuộc tấn công và phản công
địch. Qua thắng lợi của các chiến dịch Hòa Bình (1951 - 1952), Tây Bắc 1952,
Thượng Lào 1953, vùng giải phóng của ta được mở rộng, chính quyền dân chủ nhân
dân được củng cố, lực lượng vũ trang cách mạng trưởng thành nhanh chóng; cục
diện chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương chuyển biến mạnh theo chiều hướng có
lợi cho quân và dân ta.
2. Âm mưu và kế
hoạch của thực dân Pháp
Bị thất bại liên
tiếp trên các chiến trường khiến cho thực dân Pháp dấn sâu vào thế bị động,
nguy khốn. Phong trào nhân dân Pháp đòi chấm dứt chiến tranh ngày càng lên
mạnh. Để cứu vãn tình hình, Chính phủ Pháp một mặt xin thêm viện trợ Mỹ, mặt
khác thay đổi chỉ huy và kế hoạch tác chiến hòng tìm lối thoát danh dự bằng một
thắng lợi quân sự.
Tháng 5/1953,
được sự ủng hộ của Mỹ, Chính phủ Pháp cử tướng Hăngri Nava, Tham mưu trưởng lục
quân Pháp thuộc khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) đóng ở Trung Âu làm Tổng chỉ huy
quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Sau khi khảo sát, tìm hiểu thực tế chiến
trường, Nava đề ra một kế hoạch quân sự toàn diện (sau này được gọi là kế hoạch
Nava), được Chính phủ và Hội đồng quốc phòng Pháp thông qua ngày 24/7/1953.
Nhiệm vụ trung
tâm của kế hoạch Nava là tới năm 1954, tổ chức khối chủ lực tác chiến gấp 3 lần
số binh đoàn hiện có, chia thành hai bước: (1)Trong Thu - Đông 1953 và Xuân
1954, giữ vững thế phòng ngự chiến lược ở phía bắc vĩ tuyến 18, phòng ngự
thượng Lào; tiến công bình định miền Nam, miền Trung Đông Dương; xóa bỏ vùng tự
do Liên khu V; (2)Nếu đạt được bước một sẽ chuyển sang tiến công chiến lược
miền Bắc, giành thắng lợi quân sự to lớn, buộc ta phải đàm phán theo những điều
kiện có lợi cho chúng. Kế hoạch quân sự Nava là cố gắng cao nhất của Pháp và Mỹ
trong cuộc chiến tranh Đông Dương với hy vọng trong vòng 18 tháng sẽ chuyển bại
thành thắng. Thực hiện kế hoạch này, Pháp tăng viện quân viễn chinh, mở rộng
khối quân cơ động, ráo riết bắt thanh niên vào lính ngụy, phát triển phỉ vùng
rừng núi. Mùa hè và mùa thu năm 1953, địch mở hàng chục trận càn quét lớn nhỏ ở
Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, Nam Bộ, đánh phá ác liệt các căn cứ của ta; tháng
7/1953, chúng cho quân nhảy dù tập kích Lạng Sơn; tháng 8/1953, chúng rút lực
lượng ở Nà Sản về tăng cường ở đồng bằng Bắc Bộ.
Giữa tháng
11/1953, bộ đội chủ lực của ta thực hiện kế hoạch tiến lên Tây Bắc, một bộ phận
tiến sang Trung Lào phối hợp chiến đấu với Quân đội Pathet Lào. Trước tình hình
đó, Nava buộc phải cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ nhằm chặn bước tiến của
quân ta. Kế hoạch Nava bị đảo lộn, chúng phải phân tán lực lượng để đối phó với
ta. Chấp nhận cuộc chiến đấu tại Điện Biên Phủ, Nava tập trung mọi cố gắng, với
sự giúp đỡ rất lớn của Mỹ, xây dựng Điện Biên Phủ - vị trí có ý nghĩa chiến
lược không chỉ đối với Tây Bắc Việt Nam mà cả vùng Thượng Lào và Bắc Đông Dương
thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, “một pháo đài bất khả xâm
phạm”, gồm 49 cứ điểm, chia thành ba phân khu yểm hộ lẫn nhau, có cơ cấu phòng
ngự vững chắc. Địch đã cho tập trung ở đây hơn 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn
trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh,
1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới, với ý đồ
thách thức quân và dân ta, nghiền nát quân chủ lực của ta.
3. Sự chỉ đạo
chiến lược và chuẩn bị của ta
Nhận rõ thủ đoạn
của thực dân Pháp trong kế hoạch Nava, cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã họp bàn về nhiệm vụ quân sự, phân tích sâu sắc thế
chiến lược giữa ta và địch, ra nghị quyết thông qua kế hoạch tác chiến Đông -
Xuân 1953 – 1954, giữ vững quyền chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận chính
diện và sau lưng địch, phối hợp trên phạm vi cả nước và phối hợp trên toàn Đông
Dương, nhấn mạnh phương châm chiến đấu: “tích cực, chủ động, cơ động, linh
hoạt” . Nghị quyết của Bộ Chính trị được quán triệt tới các cấp, các ngành; Bộ
Tổng tham mưu đặt kế hoạch tác chiến cụ thể cho các chiến trường; các kế hoạch
phối hợp tác chiến giữa ta với Lào, Campuchia cũng đã được hoàn toàn nhất trí;
mọi việc chuẩn bị và công tác tổ chức lực lượng được triển khai mạnh mẽ.
Để phối hợp với
cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954, Đảng và Chính phủ ta đã chủ
trương mở cuộc tiến công địch trên mặt trận ngoại giao. Ngày 26/11/1953, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu rõ quan điểm của Nhân dân ta: “... Cơ sở của việc đình
chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của
nước Việt Nam” đã tạo tiếng vang lớn, thu hút sự quan tâm, đồng tình, ủng hộ
của nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới đối với cuộc kháng
chiến chính nghĩa của nhân dân ta.
Trên cơ sở nắm
chắc mọi âm mưu, hành động của địch, phân tích, đánh giá tình hình một cách
khoa học, đầu tháng 12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên
Phủ, thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân ủy và giao cho Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh quân
đội trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng mặt trận. Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ thị “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng, không những về
quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế.
Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”;
dặn dò Đại tướng Võ Nguyên Giáp: phải đánh thắng, chắc thắng mới đánh, không
chắc thắng không đánh. Cùng với đó, Chính phủ quyết định thành lập Hội đồng
cung cấp mặt trận do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Với ý nghĩa đặc biệt
quan trọng của chiến dịch, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã quyết định tập trung
đại bộ phận chủ lực tinh nhuệ gồm 04 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo với
tổng quân số trên 40.000 cán bộ, chiến sĩ. Chấp hành quyết định của Bộ Chính
trị, mọi công việc chuẩn bị cho chiến dịch được tiến hành khẩn trương. Cả nước
đã tập trung sức mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền
tuyến, tất cả để chiến thắng”. Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết,
ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến
công địch. Cả một hậu phương rộng lớn của đất nước, từ vùng tự do Việt Bắc,
Liên khu III, Liên khu IV, vùng mới giải phóng Tây Bắc đến vùng du kích và căn
cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ, vùng mới giải phóng ở Thượng Lào, đều dồn sức
người, sức của với hơn 260.000 dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom
đạn, hướng về Điện Biên bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch.
Để tạo thuận lợi
cho trận quyết chiến ở Điện Biên Phủ, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh cho các đơn vị
chủ lực phối hợp mở đợt tiến công mạnh mẽ trên các chiến trường: (1) Tiến công
Lai Châu, uy hiếp Điện Biên Phủ từ phía bắc; (2) Phối hợp với quân giải phóng
Lào mở chiến dịch tiến công vào Trung Lào; (3) Tiến sâu xuống Hạ Lào và Đông
Campuchia; (4) Tiến công trên mặt trận Bắc Tây Nguyên; (5) Phối hợp tiến công
phòng tuyến địch tại Thượng Lào. Với 5 đòn chiến lược trên, chẳng những ta đã
tiêu diệt nhiều địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn mà còn làm phá sản
âm mưu tập trung lực lượng cơ động của Nava ở đồng bằng Bắc Bộ, buộc chúng phải
phân tán các nơi để đối phó với ta. Đồng thời, ở chiến trường trung du và đồng
bằng Bắc Bộ, quân và dân ta cũng đánh mạnh ở tuyến ngoài và sau lưng địch; các
địa phương ở Bình Trị Thiên, Nam Trung Bộ, Nam Bộ đã đẩy mạnh tiến công quân
sự, chính trị, kết hợp với “ngụy vận” để phối hợp với chiến trường chính.
II. Diễn biến,
kết quả của chiến dịch
Ngày 25/01/1954,
các đơn vị bộ đội ta ở vị trí tập kết sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác
chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Nhận thấy địch đã tăng cường lực lượng
phòng ngự vững chắc ở Điện Biên Phủ, Bộ Chỉ huy và Đảng ủy chiến dịch đã thay
đổi phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”. Đây là quyết định đúng
đắn nhưng ta cũng gặp không ít khó khăn: thời gian tác chiến dài hơn, thay đổi
về cách đánh nên có những việc ta phải chuẩn bị lại từ đầu, nhất là việc tổ
chức, bố trí hệ thống hoả lực của chiến dịch. Với địa hình hiểm trở, việc kéo
pháo vào tập trung tại trận địa đã vô cùng khó khăn, nay lại phải kéo pháo phân
tán ra các trận địa mới trên các điểm cao để tạo thành vòng cung bao vây tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bắn trực tiếp vào các mục tiêu dưới lòng chảo càng
khó khăn hơn. Tuy nhiên, với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian khổ, hy
sinh, quân và dân ta đã tìm mọi cách vượt qua thử thách, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ.
Sau khi công tác
chuẩn bị hoàn thành, ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công Điện Biên Phủ.
Chiến dịch diễn ra thành ba đợt trong gần hai tháng:
Đợt 1: Từ ngày
13/3 đến ngày 17/3/1954, quân ta đã mưu trí, dũng cảm tiêu diệt gọn cứ điểm Him
Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ hệ thống phòng ngự trên hướng
Bắc và Đông Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; mở toang cánh cửa cho quân
ta tiến xuống vùng lòng chảo và khu trung tâm. Hai tiểu đoàn tinh nhuệ nhất của
địch bị tiêu diệt gọn, một tiểu đoàn khác và 3 đại đội ngụy Thái tan rã. Một số
lượng lớn pháo 105 ly và pháo cối 120 ly của địch bị ta phá hủy hoàn toàn, hầu
hết các máy bay chiến đấu trong vùng lòng chảo đều bị ta tiêu diệt.
Đợt 2: Từ ngày
30/3 đến ngày 30/4/l954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân
khu trung tâm. Ta đã tiêu diệt khoảng 5.000 tên địch, trong số đó gồm 4 tiểu
đoàn và 9 đại đội (chiếm khoảng 1⁄2 tổng số quân địch ở phân khu Bắc và phân
khu trung tâm); khống chế được phần lớn điểm cao phía đông, phát triển trận địa
tới sát sân bay, thắt chặt vòng vây, chia cắt, khống chế các khu vực còn lại
trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế
tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm.
Đợt 3: Từ ngày
01/5 đến ngày 07/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm còn lại ở phía Đông,
diệt một số cứ điểm phía Tây và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. 17 giờ ngày 06/5/1954, pháo binh và hỏa tiễn của ta
bắn dữ dội vào các cứ điểm địch, mở đường cho bộ binh tiến công. Tại khu đồi
A1, sau khi cho nổ 1 tấn bộc phá tiêu diệt hầm ngầm địch, bộ đội ta chia làm
nhiều mũi, theo các đường hào đánh lên đỉnh đồi. 17 giờ 30 phút ngày 07/5/1954,
Tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị bắt
sống. Ngay trong đêm đó quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh địch tháo
chạy về Thượng Lào, đến 22 giờ toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh.
Sau 56 ngày đêm
“khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo,
quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và
bắt sống toàn bộ quân địch, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 xe và toàn bộ vũ khí,
kho tàng, quân trang, quân dụng của địch. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ toàn
thắng, đây là bản anh hùng ca của cuộc chiến tranh nhân dân thần kỳ, “được ghi
vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế
kỷ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì
của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”.
Kỷ niệm 70 năm
Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 / 7-5-2024) là dịp toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta ôn lại lịch sử, tưởng nhớ, tri ân sự hy sinh, cống hiến to lớn, vẻ
vang của các anh hùng liệt sĩ, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, cán bộ, chiến sĩ và các
tầng lớp nhân dân cả nước; biết ơn sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế; đồng
thời, tiếp tục nghiên cứu, đúc kết và rút ra những giá trị, bài học kinh nghiệm
quý báu có thể vận dụng và phát huy trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
[1] Lê
Duẩn, Tuyển tập (1965-1975), Tập II, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008,
tr. 582.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2011, tập 4, tr.534.
|